Theo dõi những thảo luận
trên các trang mạng xã hội hiện nay, những khái niệm "debate", "critical
thinking" được đề cập nhiều.
Ở các nền giáo dục tiên tiến, đây là những
phương pháp có tính cạnh tranh giúp thay đổi môi trường và không gian
học tập cho giới trẻ; xây dựng khả năng tư duy độc lập, trách nhiệm
trong diễn đạt tư duy và thái độ tôn trọng trong giao tiếp.
Còn ở Việt Nam, câu chuyện "tranh luận" và
"tư duy phản biện" ở trong nhà trường ra sao? VietNamNet giới thiệu một
góc nhìn của GS Vũ Đức Vượng, Giám đốc Chương trình Giáo dục Tổng quát,
ĐH Hoa Sen, TP HCM.
Giáo sư Vũ Đức Vượng
“Tư duy phản biện” mới chỉ được dạy
một chiều
Ông
có thể cho biết cụ thể về tranh biện trong giáo dục?
- Tranh
biện là xương sống của giáo dục. Trong các môn khoa học tự nhiên, người nghiên
cứu có thể chứng minh được sự thật khi dùng những dữ kiện hay thử nghiệm tự
nhiên vào việc này. Gallileo, dù có phải “phản tỉnh” để tránh bị hỏa thiêu,
nhưng cuối cùng vẫn được công nhận là người đã tìm ra sự thật về vũ trụ.
Trong
các môn khoa học xã hội hoặc nhân văn, một là vì hoàn cảnh phức tạp hơn (cứ thử
định nghĩa hai chữ “tình yêu” đi) và hơn nữa, nhà nghiên cứu xã hội chỉ có thể
quan sát và phân tích, chứ không thể dùng con người để thí nghiệm như nhà sinh
học dùng con chuột bạch, nên tìm ra sự thật buộc lòng phải tranh luận. Cũng đã
từng có những thuyết sai lệch được thừa nhận như sự thật một thời gian, nhưng
rồi cũng bị đào thải. Trong nhiều thế kỷ trước đây, người da mầu bị người da
trắng coi là thiếu thông minh, lạc hậu, và đã có nhiều nhà khoa học “chứng
minh” giả thuyết này. Hoặc những lời dạy của Khổng tử về thân phận phụ nữ đã từng
được coi như “chân lý” ở Á châu trong nhiều thế kỷ. Đến thế kỷ này, chúng ta đã
chứng minh ngược lại.
Vì
thế, con người vẫn hy vọng là với tranh luận, chúng ta sẽ dần dần tìm ra sự
thật về chính chúng ta, và về xã hội chúng ta đang sống.
Những
khái niệm như "debate", "critical thinking" được dạy rộng rãi ở đại học nước ngoài,
khi vào trường đại học ở Việt Nam thì phát triển thế nào, thưa ông?
- Nói
chung, giáo dục phương Tây (hầu hết Âu và Mỹ châu) đặt nền tảng trên logic, do
đó tranh luận, phản biện, hoặc so sánh các ý kiến khác biệt là chuyện không thể
thiếu. Trừ thời Trung cổ ở Âu châu, truyền thống tranh biện đã phát triển mạnh
mẽ qua các triết gia Hy Lạp, La Mã, rồi nối tiếp lại từ thời Phục Hưng
(Renaissance) cho tới nay. Nền giáo dục đại học ở những nước này cũng theo một
truyền thống đó, đòi hỏi nghiên cứu khoa học dựa trên tìm tòi, tranh biện, so
sánh của nhiều người.
Trong
khi đó, bên Á châu chúng ta đặt trật tự xã hội và tôn vinh những người thầy
quan trọng hơn là liên tục tìm ra sự thật. Trong hơn hai nghìn năm, chúng ta
theo gương Trung Quốc: Khổng tử không thể nói điều gì sai và những gì từ thế
giới bên ngoài đều là “man ri, mọi rợ”. Chúng ta hành
hạ, áp đảo những ai có ý kiến khác với “truyền thống” hoặc đặt những câu
hỏi khó trả lời.
Cho
đến bây giờ, ở Việt Nam ta hầu hết các trường vẫn chưa thoát ra khỏi được cái
tư duy “bảo thủ” đó, nên tuy ngoài miệng nói “tư duy độc lập” nhưng trong hành xử, phần đông vẫn ngồi chờ “chỉ đạo” từ trên
xuống; hoặc như ngay Bộ GD-ĐT và các UBND cũng không dám nới cái
vòng kim cô đè nặng trên trường các cấp. Có những trường tuy nói là dạy “tư duy
phản biện” nhưng vẫn dạy theo hướng “một chiều” chứ chưa thực lòng khuyến khích
sinh viên, học sinh theo đuổi những luồng tư duy khác.
Hình minh họa về những kỹ năng của "tư duy phán đoán"
Tôi
cũng không thích lắm cụm từ “tư duy phản biện” để dịch “critical thinking” vì
nó ám chỉ một lối tranh luận thù nghịch chứ không phải chú tâm tìm ra sự thật.
Tôi nghĩ “tư duy phán đoán” có lẽ đúng hơn.
Việc
tìm ra ai đúng ở một môi trường như giáo dục – vốn hiển nhiên được cho là dạy
toàn điều đúng – có giá trị như thế nào?
- Tôi
không hẳn đồng ý với cái “vốn hiển nhiên cho là dạy toàn điều đúng”. Như đã nói
ở trên, cái giáo dục từ chương mà ta áp dụng ở Việt Nam từ thế kỷ thứ 11 đến
nay không thể coi được là “dạy toàn điều đúng.”
Cái
giá trị đích thực của giáo dục phải là một phương pháp, một thói quen, và một
lối sống tự tìm tòi, tự đánh giá, và tự chọn lựa suốt đời. Ta phải luôn luôn
dùng đầu óc của chính mình, học hỏi cho chính mình, và quyết định cho chính
mình trước đã.
Có những vấn đề từ nguyên thủy của loài người đến nay, chúng ta
chưa phải chạm trán, nhưng bây giờ là một vấn đề rất thực tế. Chẳng hạn như thế
hệ chúng tôi sẽ bắt đầu phải quyết định sống đến bao lâu là đủ, sống như thế
nào mới là đáng sống; và tôi nghĩ nhiều người trong chúng tôi sẽ phải chọn một
lối hành xử sao cho đẹp, cho tử tế, với chính mình, với gia đình mình, và với
xã hội nói chung.
Khi
tranh biện, có nhất thiết phải đi tới cùng không, thưa ông?
- Không.
Thứ nhất vì ta không biết đâu là cùng.
Cuộc nội chiến ở Mỹ chấm dứt năm 1863
nhưng đến bây giờ, 150 năm sau, nhiều ngừoi ở miền Nam vẫn không chịu đóng
trang sử đó lại.
Các cuộc chiến ở Việt Nam ta trong thế kỷ trước cũng không
khác; bao nhiêu điều vẫn còn bí mật. Hoặc bao nhiêu tôn giáo trên thế giới ngày
nay, dù đều dạy yêu thương nhau, nhưng trong thực tế vẫn còn tranh nhau ảnh
hưởng, hay có những nhóm quá khích còn dùng tôn giáo để đạt những mục tiêu vô
nhân đạo.
Thứ
hai, con người biết dùng đầu óc và chúng ta luôn luôn tiến tới chứ không chịu
đứng yên. Các vấn đề xã hội và nhân văn cũng luôn thay đổi.
Hằng bao nhiêu thế
hệ cha mẹ “thương cho roi cho vọt” nhưng bây giờ chúng ta cũng đã nhận ra là
“thương cho ngọt cho bùi” có khi còn hiệu quả hơn. Hoặc bây giờ nhiều nhà xã
hội học hay tâm lý học kết luận là cái triết lý “cho roi cho vọt” vô tình dạy
cho con cháu mình bài học vũ lực giải quyết được mọi việc. Vì thế, cái “cùng”
nó “vô cùng” lắm.
Chúng ta chỉ trưởng thành khi chấp
nhận không có gì tuyệt đối
Có
giảng viên đại học chia sẻ rằng điều chị thất vọng nhất đối với sinh viên là họ
không bao giờ đặt câu hỏi hay nhận xét về bài giảng, cho dù có được mời, hay có
thời gian chuẩn bị.
Theo
ông, những yếu tố nào đã làm tê liệt tư duy phản biện của những người ngày ngày
được lĩnh hội tri thức mới?
- Yếu
tố quan trọng nhất vẫn là lối dạy và học từ chương của Trung Quốc và của ta.
Người Nhật đã bỏ được lối học đó khi Minh Trị lên ngôi năm 1868, và chúng ta đã
chứng kiến kết quả vượt bực của họ trong hơn một thế kỷ qua.
Một
yếu tố nữa có thể là chính sách quá cứng rắn, đến bóp nghẹt sinh khí của học
sinh, sinh viên, của nước ta từ thời phong kiến, sang thời thực dân, và tiếp
tục hơn nửa thế kỷ nay.
Lúc nhỏ, lớn lên trong miền Nam, tôi không quan tâm lắm
đến chính sách giáo dục thời đó; nhưng bây giờ nhìn lại, tôi mới thấy cái chính
sách phần nào có vẻ “đem con bỏ chợ” ấy (laissez faire) lại giúp văn học miền
Nam chấp nhận, ngay cả cưu mang được những Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Phạm
Thiên Thư, Tạ Tỵ, Phạm Duy, Duyên Anh, Chu Tử, Trần Văn Trạch, AVT, v.v….
Cho
đến bây giờ, chúng ta vẫn chưa có một ngành truyền thông tự do, trung thực; chưa có một nền kinh tế thị trường đích thực để
đo được thành quả hoặc thất bại thật; v.v… nói thế, chúng ta đủ hiểu tại sao tư
duy phản biện của mọi giới, chứ không riêng gì sinh viên, bị tê liệt đi.
Tranh
biện hiếm khi xảy ra ở trường lớp, trong khi ở các diễn đàn bên ngoài HSSV vẫn
vô cùng hào hứng với vô số chủ đề khác nhau. Vậy có phải việc tranh biện trong
giáo dục, giữa một bên là giáo viên một bên là học viên – là một “cuộc chơi”
không có trọng tài, và ưu thế ngay từ đầu dường như đã nghiêng về giáo viên là
những người nắm giữ tri thức - đã làm nản chí bất cứ sinh viên muốn tìm kiếm
câu trả lời xác đáng nhất cho vấn đề họ quan tâm?
- Tiền
đề (premise) này không ổn lắm. Giảng viên là người dẫn đường chứ không phải là
người tranh luận với học sinh, sinh viên.
Trong
lớp học, giảng viên mở rộng tầm nhìn cho sinh viên, qua những bài đọc, bài
thuyết giảng hay những công tác tự tìm tòi. Giảng viên cũng có thể đặt những
câu hỏi để sinh viên phải suy nghĩ, tựa như cách dạy của Socrates 25 thế kỷ
trước, hoặc tạo cơ hội cho sinh viên tranh luận với nhau. Chỉ như vậy, người
sinh viên mới phát huy được khả năng suy nghĩ, tranh luận, và thuyết phục được
người khác.
Một
điểm nữa không kém quan trọng là chúng ta phải tôn trọng sự khác biệt ở người
khác. Chúng ta chỉ trưởng thành được khi chúng ta chấp nhận thế gian này không
có gì tuyệt đối, và đôi khi cái mà chúng ta tôn vinh là đạo đức lại là một cái
gì vô nhân đạo.
Nếu chúng ta chỉ dạy con em “dựa
cột mà nghe” hoặc “im lặng là vàng” thì làm sao chúng ta có thể mong đợi các em
tranh luận sắc bén và thú vị được?
Một tương lai… mù mịt
Theo
ông, tranh biện có nên là một kỹ năng cần đưa vào dạy ở trường lớp không?
- Tranh
luận là cốt lõi của các ngành xã hội và nhân văn để đi đến sự thật, như đã nói
ở phần đầu.
Hiển nhiên là trường học các cấp phải dạy và khuyến khích khả năng
tranh luận. Ngay ở những lớp thấp nhất, như mẫu giáo, giảng viên khéo léo có
thể lái những cuộc cãi vã giữa các em thành một cuộc tranh luận có lý lẽ, dựa
trên logic và quyền lợi chung… Như vậy cô giáo vừa dạy một kỹ năng sống trong
nhóm, vừa dạy kỹ năng tranh luận dựa trên lý trí chứ không trên cảm xúc nhất
thời.
Bên
Âu Mỹ, có một chủng tộc tuy ít người và bị ngược đãi hàng nghìn năm, nhưng lại
rất có ảnh hưởng trong xã hội, là nhóm dân Do Thái. Họ giỏi về nhiều ngành, từ
khoa học đến chính trị, từ kinh tế đến giáo dục, từ nghệ thuật đến quân sự,
ngay cả khôi hài….
Tôi vẫn nghĩ sắc tộc này phát huy được nhiều tài năng một
phần là do truyền thống tranh luận từ trong gia đình ra đến xã hội.
Điều
gì sẽ xảy ra nếu tranh biện tiếp tục bị “từ chối” trong giáo dục?
- Chúng
ta, và con cháu chúng ta, sẽ tiếp tục lụn bại trước những thăng trầm của lịch
sử, sẽ mãi mãi đuổi theo các nước khác, ngay cả những nước làng giềng, nghèo
hơn như Lào, có thể ít tiến sĩ hơn như Campuchia hay Miến Điện, hoặc ít tài
nguyên hơn như Singapore. Nhưng họ đã hay sẽ qua mặt chúng ta hết.
Sau
hơn ba năm sống và làm việc ở Hà Nội và Sài Gòn, tôi càng ngày càng có cảm
tưởng nước ta đã đánh mất thời cơ để xây dựng một Việt Nam tự tin, phồn thịnh,
nhân bản và hạnh phúc trong thế kỷ này.
Dĩ
nhiên đây là trách nhiệm của thế hệ chúng tôi, và phần nào của thế hệ đàn anh
chúng tôi nữa, nhưng tôi không khỏi tiếc nuối là di sản chúng tôi để lại cho
con cháu trong thế kỷ này, nhất là về mặt giáo dục, thật là quá khiêm tốn, nếu
không muốn nói là đã tụt hậu nhiều.
Với
một nền giáo dục bây giờ vẫn còn loay hoay chuyển mình từ “đọc chép” sang “lấy
người học làm trung tâm”, thì tương lai của tranh biện sẽ như thế nào, thưa ông?
- Hai
chữ: mù mịt.
Tôi
cũng muốn cẩn trọng người đọc là “lấy người học làm trung tâm” cũng chỉ là một
phương thức giáo dục thôi, chứ không phải là mục đích của giáo dục. Mục đích,
hay triết lý, của giáo dục phải là đào tạo thế hệ đi sau mình không những
“thành tài” mà còn phải “thành người” nữa. Đó là thách thức của giáo dục ở mọi
nơi, qua mọi thời đại, và không dễ gì đạt được.
Xin
trân trọng cảm ơn ông!
Theo Vietnamnet - Hạnh
Ngân (thực hiện)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét